Vẫn
còn đó hình ảnh miền quê, mảnh sân vườn lơ thơ mấy hàng cau, vài gốc xồi, vài gốc
mận. Quanh năm lá rụng đầy sân, nhứt là vào
mùa mận, trái rụng lộp bộp suốt ngày. Không như trẻ con ở thành thị mỗi
ngày đều được phát tiền quà bánh, đám trẻ nhà quê lâu lâu mới được người lớn
cho tiền một lần. Bù lại, thiên nhiên như ưu đãi chúng mùa nào thức nấy, từ
trái cà na, trái bình bát, rồi mận, xồi..., sáng, trưa, tối đều thấy chúng thơ
thẩn từ vườn này qua vườn kia. Tất cả như vẫn còn đó, quen mắt đến độ như quên
theo dòng thời gian hai chiều, không vật nào đứng nguyên một chỗ. Nhiều kỷ niệm
đã đội nón ra đi, đã trở thành hình sương, bong khói... Biết tìm lại đâu một lần
thứ hai... Tờ mờ sáng mẹ tôi thức dậy quét sân sàn sạt. Tiếng chổi đánh thức mọi
người trong nhà, chị vo gạo nấu nồi cháo sáng, tôi cho gà vịt ăn, người nào có
việc nấy giữa làn khói vây phủ. Từ đống lá mận mẹ gom lại, khói tỏa ra lượn lờ
quyện trong sương, hòa trong tia nắng đầu ngày. Buổi sáng êm ả thanh bình làm
sao, trong khói sương còn có tiếng chim hót ríu rít. Dường như cuộc sống chẳng
có việc gì thúc bách như ở chợ. Ở quê, ao hồ xung quanh nên đêm xuống rất nhiều
muỗi mòng.
Buổi
chiều mẹ quét sân lần nữa, rưới nước để đó, chờ sụp tối bà ra đốt như bếp un muỗi.
Khói nồng ấm lan ra khắp sân, bay vô nhà... Mùi khói nồng nàn sao, chúng tôi đứa
ngồi học bài, đứa ngồi đọc sách... không con muỗi nào cắn. Đêm ở thôn quê, nhà
nào cũng leo lét ánh lửa, người đốt rơm hun trâu bò, kẻ đốt phân khô... chẳng
ai hiểu đấy là việc vệ sinh môi trường như ngày nay. Đến mùa lá rụng nhiều, mẹ
ví đôi ba bồ lá khô để ở góc nhà, giống như ở miền Bắc có cây bàng lá to xòe,
mùa thu lá chín đỏ rụng xuống được người ta dung làm chất đốt. Nhà văn Nhất
Linh có đoạn văn tả hai đứa trẻ đi nhặt lá bàng ngồi chờ gió lên. Ngày trước đoạn
văn được trích giảng vào sách giáo khoa, văn thật hay nhưng chuyện kể lại có
chút gì đó thật xót xa, gợi thương cảm đến những người dân nghèo khó. Ở đây, mẹ
tôi quét lá để dùng không phải vì nhà thiếu củi, cũng chẳng phải vì hà tiện,
nhưng tính kỹ lại bà làm ra được khối tiền! Thật là tiện lợi, một công hai chuyện...
Lá rụng nhiều rồi hóa thành rác chỉ thêm dơ bẩn, đốt chúng đi vừa sạch vừa lợi.
Có thể chiếc lá cũng không nghĩ tới việc mình sẽ được hóa khói. Mẹ cứ thong thả
cho từng nắm lá khô vô bếp, cứ thong thả nước sôi, thong thả nồi cám heo
chín... Nhà thơ Kiên Giang có câu: “Tiền không là lá em ơi”, nhưng với mẹ
tôi thì khác. Mỗi lứa heo đem cân, số tiền thu được có cả tiền của lá khô đem lại...
Tôi bồi hồi nhớ lại hình ảnh mẹ. Giờ đây quê cũ vẫn còn đó hàng cau lơ thơ, mấy
gốc mận... nhưng con người đã khác xưa. Lá rụng, mấy đứa cháu quét rồi tấp đâu
đó, dơ bẩn, hoặc đem đổ xuống mương rạch... Cuộc sống thôn quê giờ đã đầy đủ tiện
nghi, có nhang trừ muỗi, có thuốc xịt muỗi... đâu còn ai đi gom lá đốt hun mmuỗi
chiều chiều. Ghe củi tràm chẻ sẵn chở đến tận nhà, còn lúc củi khan hiếm thì
xài bếp dầu, có người còn sắm cả bếp ga... Cuộc sống tiện nghi nhưng sông rạch,
ao hồ không còn trong trẻo soi bóng mây trắng mùa hạ như ngày nào, và nhất là
không ai quan tâm nhiều đến những cánh rừng tràm đang trở nên xơ xác, tàn tạ do
việc lấy củi đốt... Tiện nghi dẫn tới bận rộn, thôn quê ngày nay dường như cũng
ít người nấu cơm sớm, mà sáng sang kéo nhau ra quán uống cà phê, rồi ăn sáng
luôn. Nhà quê giờ đây nhất nhất cái gì cũng cần đến tiền. Nhiều người rời bỏ
quê lên thành kiếm sống cũng vì dễ kiếm
tiền hơn. Khói! Khói! Cái mùi cay xè nồng nàn từ buổi thơ ấu đầu đời như
đeo đẳng người ta cho đến lúc cuối đời. Có lần tôi bắt gặp một người đang đi chợt
dừng xe lại, nhìn nhà bên đường đốt lá khô. Tôi cũng dừng lại, nhìn kỹ thấy
gương mặt anh ta như ngây dại ra. Tôi tự hỏi anh là ai mà cảnh đốt khói kia
cũng làm anh xúc động, đôi mắt mơ màng như nhìn về phương trời nào. Bất chợt
tôi nghe như khóe mắt mình cay xè, và thoáng hiện bên kia màn khói trắng là
khuôn mặt mẹ tôi, vẫn như ngày tôi còn bé.