Chúng ta đã bước sang một
thiên niên kỷ mới cùng với những Cơ hội và những thách thức mới. Loài người đã
và đang đạt được những thành tựu to lớn trong mọi lĩnh vực hoạt động sống của mình.
Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, con người có được những tiền đề cần thiết
cho sựphát triển toàn diện. Nhiều mơ ước ngàn năm của con người đã được thực hiện.
Chúng ta cần phải cảm ơn khoa học, tư duy duy lý vềtất cản hững điều tuyệt vời ấy.
Nhưng, thực tiễn lịch sử cũng cho chúng ta thấy cuộc sống của con người còn đầy
rẫy những vấn đề. Có cảm tưởng là con người ngày càng trở nên khó sống hơn,
càng mất tự tin hơn, thậm chí còn phải đối mặt với một sự không tự do lớn hơn nữa,
đối mặt với chính vấn đề về sự tồn vong của bản thân và của giống nòi. Hóa ra
khoa học, tư duy duy lý là cần thiết nhưng chưa đủ để đảm bảo cho con người một
cuộc sống hạnh phúc, toàn vẹn. Đứng trước bối cảnh tiến bộ khoa học - kỹ thuật
ngày một tăng nhanh, triết học phương Tây hiện đại đã đặt ra và giải quyết nhữngvấn
đề hoàn toàn mới mẻ so với triết học duy lý truyền thống. Lần đầu tiên triết học
phương Tây khám phá ra được trong con người có những
“
lực
lượng bản chất” khác, ngoài lý tính, mà cũng chi phối con người không kém gì
“lý tính” của nó, nếu không nói là chúng chủ yếu quy định lối ứng xử của con người
trong đa số trường hợp. Triết học phương Tây hiện đại cũng phát hiện ra rằng, sự
giải phóng bên ngoài (xã hội,chính trị, kinh tế) là cần thiết nhưng chưa đủ để con
người có được tự do. Hơn nữa, tự do của con người, về thực chất, chủyếu, là vấn
đề có liên quan tới thế giới nội tâm con người. Vậy, con người cần phải suy nghĩ
và làm gì để trở thành người tự do, tức trở thành “Người” theo đúng nghĩa của từ
này? Triết học phương Tây hiện đại cố gắng đưa ra câu trả lời cho vấn đề của mọi
vấn đề này.Chúng ta có thể khái quát lại tiến trình lịch sử triết học phương Tây
ở cuối thế kỷ XIX - nửa đầu thế kỷ XX như
sau:Đây là tổng hợp những tư tưởng và khuynh hướng triết học xuất hiện sau khi
lịch sử trực tiếp của triết học kinh điển Đức đã kết thúc cùng với sự ra đi của
Hegel. Có thể nói, trường phái Hegel một thời gian đã tồn tại và có ảnh hưởng
đáng kể đến diện mạo triết học phương Tây, vì nó là đỉnh cao của triết học duy
lý đã từng thống trị vài thế kỷ trong nền văn hóa phương Tây nói chung và triết
học phương Tây nói riêng. Nhưng, nó đã buộc phải nhanh chóng rời khỏi diễn đàn
triết học. Điều đó diễn ra một phần do có những bất đồng tư tưởng gay gắt ở bên
trong bản thân thuyết Hegel, do có sự xuất hiện các khuynh hướng triết học mới ở
bên trong nó, lúc đầu chúng có quan hệ mật thiết với thuyết Hegel, nhưng sau đó
đã trở nên độc lập.Còn trước khi diễn ra sự tan rã trường phái Hegel, chúng ta
có thểnhận thấy sự tan rã ấy được quy định không những và không hẳn bởi những bất
đồng ởbên trong phong trào triết học do Hegel khởi xướng. Cái đóng một vai trò
quan trọng lớn hơn ở đây là việc tích cực không chấp nhận triết học Hegel và ởmột
chừng mực nhất định là việc không chấp nhận triết học duy lý truyền thống (kinh
điển) tự thân nó. Các nhà tưtưởng lớn, như A.Schopenhauer (Sôpenhaoơ) và S.Kierkegaard
(Kiếckơga), đã chứng tỏ rất rõ sựkhông chấp nhận ấy ngay từ khi Hegel còn sống
và ngay sau khi ông mất. Muộn hơn, vào những thập niên cuối cùng của thế kỷ
XIX, F.Nietzsche (Nitsê) đã nắm lấy ngọn cờ phê phán, cải biến căn bản tư duy
triết học kinh điển, đánh giá lại giá trị của nó. Trong quá trình phân tích, có
thểcoi ba nhà triết học này là những người khuấy động triết học cuối thế kỷ XIX.
Họ đã mở ra con đường cho các hệ chuẩn (paradigma) triết học tương lai, do vậy
chúng ta bắt buộc phải đề cập tới tư tưởng triết học của họ khi xem xét hàng loạt
khuynh hướng triết học phương Tây hiện đại.Khuynh hướng thực chứng chủ nghĩa đã
mở ra một mặt trận phê phán khác đối với triết học kinh điển, nó không bác bỏ toàn
bộ di sản của tư tưởng triết học quá khứ, mà chỉ chống lại thiên hướng “tư biện”(tức
siêu hình học) trong đó. Chủ nghĩa thực chứng thứ nhất ra đời ởthế kỷ XIX, sau
đó nó trở thành người tiên phong của các phong trào thực chứng chủn ghĩa tương
lai (chủ nghĩa thực chứng thứ hai và chủ nghĩa thực chứng thứ ba). Chủ nghĩa thực
chứng có ảnh hưởng đáng kể đến triết học, đến văn hóa loài người. Nó chủ yếu bắt
nguồn từ khoa học tự nhiên và từ triết học của khoa học tự nhiên; nơi trú ẩn của
nó ở cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX là sinh lý học và tâm - sinh lý học. Tuy
nhiên, một điều thú vị là phong trào “ủng hộ” siêu hình học đã được kiện toàn
trong các lĩnh vực này vào những năm 50-60 thế kỷ XX: hàng loạt nhà khoa học tự
nhiên và nhà triết học đã góp phần hình thành phong trào chống thực chứng và phục
hồi các truyền thống triết học cổ đại và cận đại. Việc quay lại với triết học
kinh điển không có nghĩa là quay lại với những nguồn gốc ban đầu của nó, mà là
một quá trình khảo cứu mang tính cách tân sâu sắc. Trước mắt chúng ta là một
trong các xu hướng phát triển căn bản của triết học phương Tây hiện đại. Sau
làn sóng phê phán triết học kinh điển, một làn sóng mới đã xuất hiện: nó đấu
tranh nhằm bảo vệvà phục hồi các truyền thống triết học kinh điển. Nguyên nhân
của thực tế đó trước hết bắt nguồn từ bản thân triết học, từ mối liên hệhữu cơcủa
nó với lịch sử tư tưởng triết học. Đóng một vai trò quan trọng ở đây còn là ở chỗ,
trong thời kỳ một số người bác bỏ các giá trịvà các truyền thống trước kia, còn
một số khác thì bảo vệchúng, vì họ muốn tìm thấy phương thức duy trì bản thân
triết học và chỗ dựa đạo đức - tưtưởng ởthời đại khủng hoảng ở các giá trịvà
các truyền thống ấy.Thuyết Kant mới đã ra đời dưới khẩu hiệu “quay lại với
Kant”. Xuất hiện vào những năm 60 thế kỷ XIX, thuyết Kant mới đã “đi qua” thế kỷ
XX. Thuyết Kant mới được đại diện bởi hai trường phái triết học cơbản là trường
phái Mácbuốc và trường phái Bađen (Phranphuốc). Sớm hơn chút ít, thuyết Hegel mới
đã bắt đầu hình thành dưới khẩu hiệu “quay lại với Hegel”. Nó gắn liền với việc
phục hồi một cách có phê phán thuyết Hegel.Cần nhận thấy rằng trong triết học
phương Tây cuối thế kỷ XIX -đầu thế kỷ XX đã diễn ra những quá trình đặc biệt
tích cực, gắn liền với việc tìm kiếm các hình thức và các hệ chuẩn triết học mới.
Vào những thập niên cuối cùng của thế kỷ XIX, các hệ chuẩn này đã ra đời trong các
trào lưu triết học khác nhau. Các khuynh hướng, các trào lưu, các trường phái
triết học chỉ tập hợp dần dần xung quanh các nhân vật nổi tiếng nhất, đã thành
công trong việc tìm kiếm các hệ chuẩn mới ấy. Sau khi ra đời ở thế kỷ XIX, lịch
sử của các khuynh hướng ấy đã chuyển sang thế kỷ XX, khi mà một số khuynh hướng
ngày càng đóng một vai trò quan trọng hơn trong triết học nói riêng và văn hóa
nói chung. Chúng tôi muốn đềcập tới hàng loạt khuynh hướng triết học phi duy
lý, như phân tâm học, chủ nghĩa thực dụng, triết học cuộc sống, hiện tượng học,
triết học hiện sinh, v.v...Như đã nói, triết học phương Tây là một hiện tượng
nhiều sắc thái, nó bao gồm rất nhiều khuynh hướng, trào lưu, trường phái khác nhau.
Đểcó được một quan niệm chung về triết học phương Tây, theo chúng tôi, chúng ta
cần tìm hiểu cội nguồn của “bước ngoặt” diễn ra trong nó vào cuối thế kỷ XIX và
đầu thế kỷ XX, cũng như những sự
“
cách
tân” của nó trong vấn đề xác định (lại) đối tượng và phương pháp của triết học.
Chính sự phát triển như vũ bão của các khoa học và sự phân hóa giữa chúng đã đặt
ra vấn đề về địa vịcủa triết học (chính xác hơn là của siêu hình học) trong hệ thống
tri thức. Có thể khẳng định, triết học lần đầu tiên đã có được một cái nhìn
chính xác về đối tượng và phương pháp đặc thù của triết học và, điều quan trọng
hơn là nó đã đưa ra được một sự luận chứng thỏa đáng cho cái nhìn của mình.
Chúng tôi muốn đề cập tới sựra đời của bản thể luận hiện đại với tư cách hạt
nhân của triết học nói chung và đặc biệt là của triết học phi duy lý nói riêng.
Tìm hiểu lịch sử triết học nói chung và triết học phương Tây nói riêng là một
việc làm tối cần thiết. Điều này lại càng trở nên cấp bách hơn trong bối cảnh
tiếp biến văn hóa hiện nay. Chúng ta cần có được những hiểu biết cần thiết
trong lĩnh vực triết học với tưcách sự“kết tinh tinh thần văn hóa nhân văn thời
đại” để có thể đối thoại với các nền văn hóa khác, để có thể tiếp thu được những
thành tựu chung nhân loại và chỉra được những hạn chế mang tính nguyên tắc của chúng,
qua đó ngăn chặn được ảnh hưởng tiêu cực của chúng đến lối sống của chúng ta.Khi
có tính đến thực trạng của việc nghiên cứu và giảng dạy lịch sử triết học phương
Tây nói chung và đặc biệt là triết học phương Tây hiện đại nói riêng, chúng tôi
mạnh dạn giới thiệu với độc giảcuốn sách này nhằm đáp ứng một phần nhỏnhu cầu
tìm hiểu triết học phương Tây hiện đại. Như đã nói, dung lượng triết học phương
Tây hiện đại là rất lớn, do chưa có đủ khả năng trình bày toàn bộ dung lượng ấy,
chúng tôi dừng lại ởphần thứnhất của nó là phần có liên quan tới thời gian từ cuối
thế kỷ XIX cho tới nửa đầu thế kỷ XX, là phần mở đầu cho một giai đoạn mới
trong tiến trình phát triển của triết học phương Tây hiện đại. Biên soạn cuốn
sách này, chúng tôi đã cố gắng sử dụng những tư liệu phổ biến trong lĩnh vực
này. Đó là cuốn
“
Triết học phương Tây thế
kỷXX” (Nxb. Interpraks, Motscơva, 2004),
“
Lịch
sử triết học” (t.3) (Nxb. Greko-Latinski Kapinet, Motscơva, 1998, “Lịch sử triết
học phương Tây từ cổ chí kim” (t.4) của J.Reale và D.Antiseri (Nxb. Petropolis,
Xanh-Pêtécbua, 1997), “Bách khoa thưtriết học mới” gồm 4 tập (Nxb. Mysl’, Motscơva,
2001), “Các nhà triết học thếkỷXX” (Nxb. Nayka, Motscơva, 2004), v.v... Cuốn
sách khó tránh khỏi những hạn chế nhất định, chúng tôi rất mong nhận được những
đóng góp chân thành của độc giả. Xin chân thành cám ơn.
Nhóm tác giả