Cụ Vương Hồng Sển (1902 - 1996) là một nhà văn đặc biệt Nam
Bộ mà cũng là một học giả, một nhà cổ ngoạn có một không hai Việt Nam. Ông có
một bút pháp độc đáo, duyên dáng… mà vài thập kỉ của thế kỉ XX chưa có nhà văn
nào có thể so sánh được.
Vào buổi vãn niên, ông có mấy tác phẩm mà ông cho là “tâm
đắc” của mình được xuất bản, trong đó có cuốn Sài Gòn tạp pín lù (tức Sài Gòn
năm xưa II, III) nối tiếp Sài Gòn năm xưa I xuất bản từ năm 1962 tại Sài Gòn.
Nói như tác giả (VHS), Sài Gòn tạp pín lù là ông nhớ đâu
viết đó và viết bằng máy chữ nên rất tự do, tự nhiên, chân thành và không kém
thân tình. Sài Gòn tạp pín lù đến với chúng ta tuy trễ, nhưng vẫn được độc giả
say sưa đọc bởi vì bút pháp cùng với văn phong cố hữu có một không hai của nhà
cổ ngoạn họ Vương. Có thể nói Sài Gòn tạp pín lù như là một thứ Sài Gòn vang
bóng của tác giả và của cả dân Sài Gòn từng vui buồn với đất Bến Nghé từ bao
giờ cho đến bây giờ.
Đã lâu lắm chúng ta mới được thưởng thức một bữa Tạp pín lù
đặc biệt. Nói là đặc biệt bởi vì người nấu và dọn cho chúng ta bữa ăn này là
nhà văn, nhà học giả kiêm nhà chơi cổ ngoạn Vương Hồng Sển lão thành.
Sài Gòn tuy không có một quá khứ “nghìn năm văn vật” như Hà
Nội, Huế; nhưng nơi đây lại có những “nam thanh nữ tú”, nhứt là có một cái
duyên ngầm tạo được những sợi dây tình cảm cắt không đứt bứt không rời.
Trong số những người nặng tình với Sài Gòn, chúng tôi biết
có nhà văn Vương Hồng Sển. Từ năm 1962, ông có cuốn Sài Gòn năm xưa (1962) mà
trong bản in đầu ông từng viết:
“Đối với các bạn nhỏ, tôi (VHS) xin nói lớn:
1. Chỗ nào các bạn thấy mới, đừng sợ, ấy là tôi đã cân nhắc
kĩ càng, cứ tin, cứ dùng: “coi vậy mà xài được”.
2. Chỗ nào chưa “êm”, nhờ các bạn chỉ giùm, nếu tìm cách bổ
khuyết càng tốt, gọi giúp lẫn nhau, già thua trẻ không xấu, mắc cỡ bậy, hay
gì?”.
Vậy Sài Gòn năm xưa I là phần nói về nguồn gốc và vị trí
của thành phố Sài Gòn. Còn Sài Gòn tạp pín lù (II, III) là phần nối tiếp để nói
về “nam thanh nữ tú”, về cảnh sinh hoạt của Sài Gòn khoảng 70, 80 năm về kỉ
niệm xưa, về những mối vương vấn tưởng là tầm thường, nhưng đã để lại trong
lòng người với những rung động còn kéo dài mãi đến bây giờ và có thể tận mai
sau.
Tác giả gọi là “Tạp pín lù” là để nói về mọi việc, để không
bị gò bó bởi thứ tự thời gian, để “nhớ đâu nói đó”, để mở rộng giới hạn cho câu
chuyện của mình. Cái duyên riêng của “cụ Năm Sển” là ở đó. Nói “cu cu chằng
chằng” nhưng không lạc đề mà lại rất giàu nghệ thuật.
Xã hội miền Nam thời Pháp thuộc - mà nay cũng gần như vậy –
là một xã hội “tứ chiếng”, một xã hội có tính cách “siêu quốc gia”
(cosmopolite) với đông đủ các mặt “Tây, Chệt, Chà Maní”; với những nhân vật có
nhiều khía cạnh lạ lùng mà ngày nay trong mắt chúng ta, những người miền Nam
không thuộc hàng những người cố cựu, có vẻ như bị bao phủ trong một không khí
huyền thoại. Cô Ba Trà, cô Tư Nhị, cô Sáu Ngọc Anh, cô Năm Pho, cô Bảy Hột
Điều… bao nhiêu người đẹp của một thời mà tác giả Sài Gòn tạp pín lù đã nhắc
lại, gợi lại làm chúng ta khi nghe, cảm thấy bồi hồi khi nghe như thi sĩ Villon
ngày xưa của Pháp đã ngâm “Đâu rồi những vần tuyết cũ” (Mais òu sont les neiges
d’antan?) mà cứ mãi vương vấn bên mình!
Sài Gòn tạp pín lù còn là một thứ “đi tìm thời gian
đã mất” (à la recherche du temps perdu), một thứ hành hương về quá khứ để hồi
tưởng về những thú vui, những cảm xúc, những mùi vị nay không còn nữa! Tô cháo
cá chợ Cũ, bát phở đường Turc (nay là đường Hồ Huân Nghiệp), món bò bung, bánh
hỏi của ông già Thủ Đức… cũng tạo được sự kì diệu của chiếc bánh Madeleine
nhúng vào tách nước trà tilleul đối với Marcel Proust năm nào ở trời Âu.
“Javais vingt ans et c’était le printemps” câu hát của
Vương Hồng Sển trong Sài Gòn tạp pín lù mà chúng tôi xin phép được đổi từ thì
hiện tại ra thì quá khứ để cùng nhau tiếc cái tuổi Hai mươi và mùa xuân rực rỡ
của mình.
Cái thú đọc Sài Gòn tạp pín lù là ở đó, mà cũng tại văn
phong cụ Sển nữa.
Nguyễn
Q. Thắng