Như chúng tôi đã nói trong phần thứ nhất, triết học Trung Hoa
phát triển vào thời Chiến quốc, thời mà xã hội Trung Hoa biến chuyển lớn lao để
tiến từ chế độ phong kiến (gồm một vương quốc hữu danh vô thực và nhiều nước
chư hầu khuynh loát lẫn nhau để tranh quyền bá chủ) qua chế độ quân chủ thống
nhất chuyên chế (gồm một chính quyền tối cao độc nhất dẹp hết các nước chư hầu,
chia giang sơn thành nhiều quận, huyện rồi tuyển người để giao việc cai trị mỗi
quận, huyện dưới sự điều khiển của vị thiên tử).
Vì thời đó là một thời loạn, nên các triết gia Trung Hoa mỗi nhà
đưa ra một đạo lý để cứu vãn thời thế. Khổng Tử thì muốn bảo tồn chế độ phong
kiến và khuyên mỗi người phải giữ địa vị, làm tròn bổn phận của mình. Lão thì
muốn trở lại đời sống tự nhiên ở trước hoặc đầu thời đại phong kiến. Mặc thì
chủ trương chuyên chế bằng đạo kiêm ái, và chính sách công lợi... Các nhà đó
tuy không nói ra nhưng đều mong thống nhất được Trung Quốc. Nhưng phương pháp
của họ đều vô hiệu, và sau cùng, Tần Thủy Hoàng dùng vũ lực và chính sách hình
pháp của Hàn Phi mới “gom về được một mối”. Thì ra đạo lý không thể áp dụng
được về chính trị trong thời loạn. Nhưng một khi nước đã trị rồi thì nó lại rất
hữu ích. Muốn củng cố chế độ mới, nhà Hán tôn sùng học thuyết Khổng Tử và học
thuyết đó hợp thời hơn học thuyết của Lão, Trang, thực tiễn hơn học thuyết của
Mặc Tử. Nhờ vậy mà lần lần, Khổng giáo được nâng lên địa vị độc tôn.
Từ đời Hán, Khổng giáo đã chịu ít nhiều ảnh hưởng của Lão giáo
và Âm Dương giáo. Tới đời Lục Triều lại chịu thêm ảnh hưởng của Phật giáo từ Ấn
Độ truyền qua, do đó sắc thái có thay đổi, tế nhị hơn, sâu sắc hơn, nhất là
trong đời Tống - nhưng vẫn giữ những nét chính, vẫn lấy sự trung dung, hợp thời
làm trọng, vẫn nhằm sự an bang tế thế làm mục đích: như vậy luôn hai ngàn năm,
mãi đến đầu thế kỷ XX mới bắt đầu bị lay chuyển tận gốc.
Vậy thì trong lịch sử triết học Trung Hoa, đạo Khổng chiếm địa
vị quan trọng nhất mà phương tiện của đạo đó là CHÍNH và GIÁO. Nghĩa là dùng
chính trị và giáo dục để cải hóa con người, mưu cầu một cuộc sống yên ổn trong
xã hội có tổ chức. Cho nên ta có thể nói rằng đa số các triết gia Trung Hoa
không tìm hiểu để hiểu biết mà tìm hiểu để giúp đời; họ nghiên cứu vũ trụ, tri
thức và nhân sinh đều là vì nhân sinh; họ giống các triết gia thời cổ của Hi
Lạp (như Platon, Aristote) hơn là giống các triết gia cận đại của Âu châu. Họ
là những chính trị gia, luận lý gia.
--- Trích
Lời mở đầu
---