Thiền
– là một nghệ thuật nhìn bản tánh của hiện hữu mình, nó là con đường từ hệ lụy
đến tự do. Thiền là chân lý thực tại tối hậu, cũng gọi là Tâm, là Đạo cũng
nghĩa là Phật… Thiền có mặt trong lĩnh vực đời sống văn hóa, nghệ thuật và là
con đường thăng hoa nội tâm để câu thơ, nét bút tài tình hiển lộ. Đồng thời
cũng tạo nên nguồn cảm xúc vô biên, giúp chúng ta đến với chân lý vĩnh hằng,
tìm lại con đường chân thật có nơi chính mình: bình thường và vĩ đại, giản dị
nhưng thâm thúy, thực tế mà siêu nhiên. Thế nên, sống thiền cũng có nghĩa là sống
lạc quan, sống có ích với tinh thần vô ngã, vị tha.
Vì
đời sống thiền: “có ý nghĩa đối xử vối chính mình và thế gian bằng một tâm thức
yêu mến, tôn kính nhất”, minh triết thiền đang ảnh hưởng ngày càng rộng lớn tới
nhiều nước, nhất là các nước Âu, Mỹ.
Kinh
nói “vô thiền bất trí, vô trí bất thiền. Đạo túng thiền trì, đắc chí Nê – Hoàn”,
điều đó chứng tỏ thiền và trí là cốt lõi của phật giáo, và những ai gieo được
căn lành trong nhiều kiếp mới có hy vọng uống ngụm nước đầu nguồn của chánh pháp
Hãy lắng nghe hoa
Lời vô thanh ấy
Đi vào tâm ta…
Onitsura
Có người hỏi, Thiền tông chủ trương
“không dùng văn tự, truyền ngoài giáo điển, phàm có những gì có hình tướng đều
là hư huyễn”, vậy thì còn dùng văn tự để làm gì? Thế nhưng, nếu ta “huyễn” được thân tâm, bản
tánh điều không, thì cùng với phật không có gì sai khác! Bấy giờ ta có thể ngắm
mây bay, trăng rụng, mà chỉ thấy thuần tý một màu xanh, đối với sự không chướng
trệ, đối với Lý chẳng vướng mắc, Sự, Lý đều dung thông, vô ngại thì còn lo gì gặp
huyễn bàn về chuyện huyễn.
Nhứt
thiết hữu vi pháp
Như
mộng huyễn bào ảnh
Như
diệc, cũng như điện
Ưng
tác như thị quán
Kinh Kim Cang
Dịch:
Tất
cả pháp hữu vi
Như
mộng huyễn bọt bóng
Như
sương cũng như điện
Nên
khởi quán như thế
Trong thể tính, thiền vượt qua mọi
giới hạn của ý niệm và ngôn ngữ nên chỉ thâm nhập bằng thực chứng chứ không qua
phân tích, lý luận hoặc bình giải.
Nhưng trong tướng dụng, dù “bất lập
văn tự”, Thiền vẫn phải hóa thân vào văn tự và lắm khi phải ẩn mình dưới những
hình thức, biểu tượng, ẩn dụ, mật ngữ, thi ca… như cách chơi ngẫu hứng của các
bậc thiền sư…
“Vĩnh
vi lãng đãng phong trần khách
Nhật
viễn gia hương van lý trình”
Trần Nhân Tông
( Khóa Hư Lục )
Dịch :
Lênh
đênh làm khách phong trần mãi
Ngày
hết, quê xa vạn dặm đường
(
Diễn dịch : trời đã về chiều, đường về quê nhà còn xa thăm thẳm - chỉ sắc than
vô thường tấn tốc mà chuyện giác ngộ tự tính, bản tâm còn tích mịch mù – Đăng
Lan ).
Còn
nếu dùng kinh luận để khải quát thì thính chúng sẽ rơi và kiến giải, vướng mắc
trong ý niệm, ngôn từ.
Nhưng
đã nói thì chỉ có mụch đích khai thị ( Srakkhati ) chứ không phải bế tàng. Tiếc
rằng người sau đã khoát lên thiền một vẻ bí ẩn, siêu thực để đề cao tông phái
hoặc che giấu sự mê muội của mình. Thiền chỉ bí ẩn với người mê, nhưng rất hiển
nhiên với người ngộ. Ẩn hiện chỉ là trò chơi như huyễn của Thiền, và cùng một vấn
đề nhưng bất khả tư nghì với người mê và bình thường giản dị với người ngộ…
Ta
đối diện nhau
Từng
giờ từng phút
Nhưng
chưa hề ta đã gặp nhau
Ta
biệt ly nhau
Từng
hằng vạn kiếp
Nhưng
chưa hề một phút cách xa nhau.
Suzuki
Đó chính là ẩn ngữ của tâm hồn và
trí tuệ giác ngộ của các bậc thiên sư lỗi lạc. Khi một người đã đạt đạo, đã thể
nhập với thiền thì các ngài nói gì, làm gì cũng điều là phật pháp, đều không vượt
qua tôn chỉ ba đời chư phật.
Vì vậy, vói hành trang duyên lành,
xin mời bạn hãy cùng với Tri Âm:
Em theo chân ánh sáng của buổi sớm
mai đi thăm những bông hoa trong vườn hoa của chính mình.
Vườn hoa mà trong đó ngoài những
bong hoa, còn có vô vàn đều kỳ diệu khác.
Trong đó:
Hạnh
phúc và khổ đau – thành một
Ánh
sang và bóng râm – thành một
Quá
khứ và tương lai –thành một
Và
bởi vì đôi chân em bước
Nên
tất cả lại hóa thành hai
Một
nửa ban sơ
Cho
một chiếc hài
Trụ Vũ
Những chiếc hài tự hữu, sáng ngời
nguồn đạo dễ thưởng thức những bông hoa Thiền qua tâm cảm xâu lắng, tinh diệu của
bộ môn nghệ thuật thư pháp.
Mạnh
Đông, Kỷ Sử 2009
VŨ THỊ ĐĂNG LAN