Lịch sử nông
thôn suốt hơn 4.000 năm của dân tộc Việt Nam ta gói gọn trong khái niệm “Làng”.
Hiểu về làng, ta có thể phần nào hiểu được văn hóa, tập quán, phong tục và cả
tính cách của người Việt. Bên cạnh những mặt tích cực, làng xã còn được xem là
hiện thân của triều đình phong kiến thu nhỏ với những thủ đoạn bóc lột ngang
nhiên của bọn cường hào, địa chủ, bọn thực dân phong kiến tàn ác lợi dụng sự mê
tín của dân chúng nhằm thực hiện chính sách bóc lột, trục lợi cho mình. Nhận
thức sâu sắc và cảm nhận được nỗi khốn cùng của số phận của người nông dân Việt
Nam trước giai đoạn năm 1945, nhà văn Ngô Tất Tố đã cho ra đời thiên phóng sự Việc làng.
Thiên phóng sự
Việc làng, được xem là phóng sự toàn
diện, rõ nét nhất về nông thôn Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, thông qua 16 phận
đời, 16 bức tranh toàn cảnh về “việc làng”, về những hủ tục, tập quán đương
thời nơi làng quê Bắc Bộ. Nhà văn Ngô Tất Tố đã thuật lại 16 câu chuyện mang
đúng tính chất của phóng sự, ông hoàn toàn không gửi gắm tâm tư, cảm xúc cá
nhân vào tác phẩm của mình, dù vậy, vẫn khiến người đọc không khỏi hình dung
được những gánh nặng vô hình mang tên hủ tục, lệ làng, nó chôn vùi người nông
dân vào sâu trong sự bần cùng, nghèo khổ, mãi mãi không cách nào thoát ra được.
Bằng việc khai
thác góc nhìn một cách tinh tế, nhà văn Ngô Tất Tố đã chỉ ra các hủ tục lạc
hậu, vô lý ở rất nhiều khía cạnh. Đó có thể là tục “vào ngôi” khi trẻ con
vừa ra đời, là tục xin “đặt hậu” ở làng để sau khi mình chết có dân làng lo an
táng giúp đỡ, hủ tục “nhập ngôi” của dân ngụ cư, hay tục ăn vạ của làng… Hơn
thế nữa, bất kể là lễ hội gì, từ tết nhất, lễ Thượng điền, tế thần Thành Hoàng,
lễ mua nhiêu, mua ấm… thì bọn kỳ mục lại lợi dụng những dịp này để bày mâm cỗ
chè chén no say. Số tiền phung phí cho hủ tục, lệ làng đều là từ việc bòn rút
người nông dân đến tận xương tủy. Buộc họ phải bán ruộng, phá nhà, vay
nặng lãi… chỉ vì muốn có đủ tiền để lo “việc làng”. Hệ lụy mà chúng gây ra cho
người dân là hết sức nghiêm trọng. Họ rơi vào cảnh điêu đứng, khốn cùng, nợ nần
chồng chất qua nhiều thế hệ, “một bữa lệ làng có thể gây cho người ta món nợ
lãi chung thân không trả hết”, thậm chí bị ép vào con đường túng quẫn, kết liễu
cuộc đời.
Đó
là còn chưa kể những con người bị ăn mòn, bám rễ bởi suy nghĩ sống là phải “có
ngôi” ở làng, phải “nở mày nở mặt” với người này người kia. Họ không chỉ cam chịu
mà đôi khi còn lấy làm hãnh diện khi đã tổ chức cho làng được bữa cỗ linh đình.
Dù cho, có phải đi vay mượn hay dùng tiền tích cóp cả đời để dồn vào mâm cỗ ấy.
Dù cho, sau bữa cỗ, họ trở nên nghèo khó, bữa đói bữa no thì với họ, đó chính
là niềm vui sướng, mãn nguyện bởi họ nghĩ “mình thế là cũng được người làn
g trọng vọng”…